I. BỐI CẢNH
Điệp ca chúng ta vừa nghe dẫn chúng ta vào Tv 26. Đây là một bài ca Cậy trông. Bài ca này nói lên sự tin cậy của người tín hữu vào Chúa giữa mọi gian nguy, thử thách và bách hại; trong lúc gian nan hoạn nạn ấy, ông kêu cầu cùng Chúa bằng một lời cầu nguyện với hai cung bậc khác nhau. Lúc đầu, ông cầu nguyện trong sự bình thản và an vui; lời cầu xin trong niềm xác tín của đức tin mở ra một cách huyền nhiệm để chúc tụng tạ ơn. Sau đó, lời cầu nguyện của ông chuyển sang một cung bậc khác, một lời than van trong khốn khổ. Tuy nhiên giữa hiện thực đau đớn và kinh hoàng ấy, ông không để mất đi niềm hy vọng. Tiếng kêu của vịnh gia không phải là một tiếng kêu tuyệt vọng, nhưng dẫn đến một viễn tượng của lời ngợi khen với sự cậy trông trọn vẹn nơi Thiên Chúa.
II. BỐ CỤC
Thánh vịnh 26 (27) gồm 14 câu và có thể được chia thành 3 phần:
- Phần I:
– Lời cầu nguyện tin tưởng khi vẫn còn ở xa Đền thờ (cc. 1-6)
– Tín nhiệm tuyệt đối (cc. 1-2)Mong tới nhà Chúa để được chở che (cc.4-5)
– Kết lại phần I với lời hứa dâng hý tế tạ ơn và chúc tụng Chúa (c. 6)
- Phần II:
– Lời khẩn cầu khi ở trong Đền thờ (7-13)
– Người khẩn nguyện xin Chúa đừng bỏ rơi mình (7-10)
– Người khẩn nguyện xin Chúa che chở mình khỏi kẻ thù (11-13)
- Phần III: Lời động viên của tư tế trong Đền thờ: “Hãy cậy trông vào Chúa” (c.14).
III. Ý NGHĨA
Trong giờ phút cầu nguyên giữa đen tối cuộc đời, với sự tỉnh thức và mong chờ Chúa hiện diện, Vịnh gia đã hướng về Chúa là nguồn ánh sáng, anh sáng xua tan bóng đêm tử thần như ánh bình minh đẩy lui đêm tối; Chúa cũng là nguồn sức mạnh bảo vệ người vô tội khỏi tay những địch thù. Thế nên, cho dù có bị đè nặng bởi những đeo dọa, vịnh gia vẫn không hề sợ hãi. Ông có một niềm cậy trông kiên vững vào Chúa và một niềm khao khát được chiêm ngắm Chúa trong Đền thờ:
Một điều tôi kiếm tôi xin,
là luôn được ở trong đền Chúa tôi
mọi ngày trong suốt cuộc đời,
để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang,
ngắm xem thánh điện huy hoàng. (Tv 26,4)
Vịnh gia mong ước được gặp Chúa trong đền Chúa. Chính nơi đây, ông được trú ẩn an toàn, được chiêm ngắm vẻ đẹp huy hoàng và hưởng nếm sự ngọt ngào của Thiên Chúa. Bởi vậy, ông dâng lễ tế tạ ơn và đàn ca mừng kính Chúa (x. Tv 26,6). Ông chứng thực rằng: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 22,6).
Trong khi gặp gỡ và chiêm ngắm Chúa với một niềm tin cậy tuyệt đối vào Chúa, vịnh gia dãi bày với Chúa về nỗi thống khổ của mình. Mạng sống của ông quả thật đang trong tình trạng nguy hiểm. Lời than van có vẻ rất khẩn thiết và ai oán, nhưng đồng thời thể hiện một sự tin tưởng tuyệt đối:
Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa,
thì hãy còn có Chúa đỡ nâng con. (Tv 26,10)
Câu này nhắc nhớ ta về điêu mà ngôn sứ I-sai-a công bố: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bào giờ.” (Is 49,15).
Vịnh gia tin chắc rằng Chúa không bao giời bỏ ông. Thế nên, ông kiên vững tìm kiếm thánh ý Chúa; ông tìm kiếm Chúa để Người bảo vệ, minh oan, đòi công lý và chỉ vẽ cho ông một con đường sống.
IV. TRUYỀN THỐNG CẦU NGUYỆN
Tv 26 được Giáo hội đưa vào Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật II Mùa Chay Năm C. Như thế, lời cầu nguyện của vịnh gia năm xưa cũng là lời cầu nguyện của mỗi chúng ta hôm nay. Tv 26 dẫn chúng ta đến núi Tabo, để chiêm gắm sự hiện diện, vẻ đẹp và vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su hiển dung. Đức Giê-su đã hiện thực hóa lời cầu nguyện này qua việc tín thác vào Thiên Chúa và chấp nhận bước vào con đường Thập giá để mang lại chiến thắng vinh quang. Nhờ đó, đức tin và niềm hy vọng của chúng ta được củng cố trên hành trình vác thập giá cuộc đời theo Đức Ki-tô. Hôm nay, trong ánh sáng của Đức Giê-su hiển dung, với tất cả niềm tín thác và hy vọng nơi Chúa Cha trong mọi cảnh khốn cùng, chúng ta có thể chiêm ngắm vẻ đẹp huy hoàng của Chúa, và ca lên rằng: “Chúa là ánh sáng, là Đấng cứu độ tôi” (Tv 26,1).
Lm. An-tôn Trần Văn Phú