Giải nghĩa và hát mẫu Thánh vịnh 89 (90) | Mùng 3 Tết

I. DẪN NHẬP

Thánh vịnh (Tv) 89 (90) có tựa đề: Lời cầu nguyện của Mô-sê, người của Thiên Chúa. Khi lấy danh xưng của Mô-sê, Vịnh gia có ý dẫn chúng ta quay trở lại biến cố Xuất hành của dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. Trong cuộc Xuất hành, Mô-sê đóng vai trò như người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en; ông là một ngôn sứ vĩ đại, một nhà lãnh đạo tài tình, và trên hết, ông là kiểu mẫu của người cầu nguyện. Ông cầu nguyện cho kẻ thù là Pha-ra-ô khi Pha-ra-ô gặp những bệnh dịch (x. Xh 8-10); ông cầu nguyện cho người thân là chị Ma-ri-am khi bà mắc bệnh phong cùi (Ds 12,9-13); ông cầu xin cho những người đã nổi loạn (x. Ds 14,1-19); ông cầu nguyện cho dân chúng khi bị rắn độc giết hại (Ds 21,4-9); ông cũng cầu nguyện cho chính mình khi gánh vác những trọng trách quá nặng nề (Ds 11,10-15).

Trong cầu nguyện, Mô-sê đã thấy Thiên Chúa và thưa chuyện với Người diện đối diện như hai người bạn (Xh 33,11). Bởi vậy, trong bối cảnh Ít-ra-en phải đương đầu với những thế lực nước ngoài, những chia rẽ nội bộ cùng với những yếu đuối tội lỗi, trong bối cảnh Ít-ra-en dường như trở lại vạch xuất phát mà không có kỳ vọng đạt tới đích, thì chính vịnh gia đã lấy danh Mô-sê mà kêu cầu với Chúa, ngõ hầu lời cầu nguyện của ông cùng với cộng đoàn được Chúa thương nhận lời.

II. NỘI DUNG

1. Bố cục

Tv 89 (90), bao gồm 17 câu, có thể được chia thành bốn phần chính:

Phần nhập đề (cc. 1-2): Lời tán tụng Thiên Chúa

Phần thân (cc. 3-6): Cuộc đời con người mỏng manh và chóng tàn

Phần tiếp theo (cc. 7-12): Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đối với con người

Phần kết (cc.13-17): Mối tương quan được tái thiết, được hàn gắn

2. Ý nghĩa

Trước tiên, Vịnh gia khởi đầu với lời tán tụng đầy tính xác tín vào Thiên Chúa là Đấng vĩnh hằng và yêu thương: “Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ, Ngài vẫn là nơi con trú ẩn.”

Sau lời tán tụng đầy xác tín này, Vịnh gia bày tỏ những suy tư khôn ngoan về cuộc đời với bản chất mỏng manh, yếu đuối và tội lỗi: “Chúa bắt phàm nhân trở về với cát bụi, Ngài phán bảo: Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi!” Suy tư này khiến chúng ta liên tưởng tới ngay những chương đầu của sách Sáng Thế. Sau khi A-đam phạm tội, Thiên Chúa phán với ông, “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19).

Bởi vậy, Vịnh gia cảm nghiệm sự hiện hữu của con người mỏng manh “như cỏ đồng trổi mọc ban mai nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn” (Tv 90,6). Con người, ngoài tính mỏng giòn yếu đuối, còn thêm biết bao nhiêu những tội lỗi: “Tội chúng con, Chúa bày ra trước mặt Ngài, lỗi thầm kín, Thánh Nhan đều soi tỏ. Chúa nổi xung, đời chúng con tàn tạ, kiếp sống thoảng qua: một tiếng thở dài.” (cc.8-9).

Chung quy lại, Vịnh gia khẳng định cuộc đời con người “tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi” (c. 10). Thế nên, Thiên Chúa dạy chúng ta biết đếm ngày đời mình sống ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan, nghĩa là, chúng ta biết mình cần đến Chúa, cần đến ân sủng và tình thương của Người. “Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ ngài đây.”

Phần kết của Tv mở ra một niềm hy vọng. Đêm dài của bóng tối được thay thế bằng ánh quang của hừng đông: “Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca” (c.13). Vịnh gia xin Chúa ban ân sủng để có thể hưởng nếm hương vị của niềm hy vọng. Chỉ nhờ ân sủng của Chúa, công việc của con người mới được ổn định và bền vững: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” (c. 17).

III. TRUYỀN THỐNG CẦU NGUYỆN

Hôm nay, cầu nguyện với Tv 89, chúng ta xin chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa chiếu tỏa ánh quang vĩnh cửu trên cuộc đời cũng như công việc của chúng ta. Xin cho mỗi người chúng ta tìm thấy niềm vui trong lao nhọc. Xin cho mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Đức Ki-tô luôn là duyên cớ “để ngày ngày chúng ta được hớn hở vui ca”. Dưới ánh sáng dọi chiếu từ biến cố Phục sinh của Đức Ki-tô, chúng ta tin tưởng sau khi vượt qua đêm dài của cái chết, chúng ta cùng được sống lại với Đức Ki-tô.

Lm. An-tôn Trần Văn Phú

Lên đầu trang